2322. Những lý do thực sự khiến Hoa Kỳ không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh nào nữa

Lính Mỹ tiến hành một cuộc tuần tra chung với quân đội Quốc gia Canada và Afghanistan ở tỉnh Kandahar, Afghanistan, vào năm 2009. (Omar Sobhani / Reuters)

NATIONAL REVIEW By LAWRENCE KORBMarch 21, 2021

Ba Sàm lược dịch

Một phản hồi dành cho Bing West

Trong bài viết trên National Review của ông nhan đề “Ba cuộc chiến, Không có chiến thắng – Tại sao?” (Ngày 18 tháng 2 năm 2021), Bing West, đồng nghiệp cũ của tôi tại Lầu Năm Góc và Trường Cao đẳng Chiến tranh Hải quân, đưa ra một trường hợp thuyết phục về lý do tại sao Hoa Kỳ – mà ông cho là quốc gia hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới – đã thua trong ba cuộc chiến tranh lớn mà nó đã tham gia trong 50 năm qua: Việt Nam, Iraq và Afghanistan.

Bing phân chia trách nhiệm về mỗi tổn thất này cho ba trung tâm – đó là quân đội, các nhà hoạch định chính sách và tâm trạng phổ biến của người dân trong nước. Ông lập luận một cách chính xác rằng trung tâm chính sách, hoặc các nhà hoạch định chính sách, chịu trách nhiệm chính về những thất bại.

Mặc dù tôi có một số kinh nghiệm trong từng cuộc xung đột này, đã từng phục vụ ở Việt Nam và đã đến thăm Iraq ba lần và Afghanistan một lần, nhưng điều đó không sánh được với Bing, một trong những người dũng cảm nhất mà tôi từng biết. Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng ông ấy trình bày một bức tranh đôi khi không đầy đủ và sai lệch về lý do tại sao chúng ta thua trong ba cuộc chiến này.

Ví dụ, khi phân tích thảm họa ở Việt Nam, ông đã bỏ qua thực tế rằng cuộc chiến đã diễn ra dưới mục đích giả tạo.

Tổng thống Johnson đã nhận được sự ủy quyền của Quốc hội vào năm 1964 để bắt đầu leo ​​thang căng thẳng ở Việt Nam để đáp trả một cuộc tấn công được cho là của Bắc Việt vào một tàu Mỹ ở Vịnh Bắc Bộ.

Tuy nhiên, ngay cả trước cuộc điều tra của Quốc hội, bất kỳ sĩ quan hải quân có kinh nghiệm nào cũng thấy rõ rằng những gì đã xảy ra mà chính quyền tuyên bố đều không có thật.

Tôi nhớ là sĩ quan chỉ huy của tôi trong VP-1, người đã thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu trong Thế chiến thứ hai và Triều Tiên, nói với chúng tôi rằng các cuộc tấn công không diễn ra theo cách như nó được tuyên bố. Đây là điều mà Phó Đô đốc James Stockdale, người là sếp của Bing và của tôi tại Trường Cao đẳng Chiến tranh và đã nhận được huân chương danh dự vì lòng dũng cảm của ông ấy với tư cách là một tù binh ở Việt Nam (POW) và người ở trong khu vực xảy ra sự kiện vào thời điểm đó, cũng đã khẳng định tương tự.

Một lý do khác khiến chúng ta thất bại ở Việt Nam là ngay từ đầu cuộc chiến đã không bao giờ có thể thắng được. Bing lập luận rằng chiến lược quân sự kém cỏi của chúng ta từ năm 1965 đến năm 1968, các quyết định chính sách tồi và tâm trạng phổ biến đã dẫn đến Chiến tranh Việt Nam.

Những yếu tố này đóng một vai trò nào đó, nhưng trên thực tế chỉ làm tăng thêm một thực tế đã tồn tại – một thực tế đã làm tôi nhận rõ vào năm 1966, khi tôi và các đồng nghiệp bị lạc trên đường trở về, sau cuộc họp với các sĩ quan “SWIFT- Boat” ở phần phía bắc của Vịnh Cam Ranh, Miền Nam Việt Nam.

Trong lúc đi vòng quanh không mục đích, cố gắng tìm đường trở về căn cứ của mình, chúng tôi đã đến một tu viện Công giáo. Một linh mục ở đó đã chỉ đường và cho chúng tôi ăn. Nhưng khi chúng tôi rời đi, một trong những thầy tu hỏi tôi bằng tiếng Pháp (mà tôi đã học ở trường) tại sao chúng tôi lại nghĩ rằng mình sẽ làm nên bất kỳ điều gì tốt đẹp hơn ở Việt Nam so với người Pháp.

Tổng thống Eisenhower đã ý thức được điều đó khi ông từ chối cứu trợ quân Pháp tại Điện Biên Phủ vào năm 1954, mặc dù hầu hết các cố vấn an ninh quốc gia của ông, bao gồm cả Phó Tổng thống Nixon và chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng, Đô đốc Radford, đã đề nghị việc đó. Nhưng Tổng tham mưu trưởng quân đội Matthew Ridgway, người đã ngăn chúng ta thua ở Triều Tiên, đã giúp thuyết phục Eisenhower không can thiệp, bởi vì ông ấy, giống như các thầy tu mà tôi đã gặp, tin rằng Việt Nam là không thể khuất phục.

Tương tự, phần lớn người dân Mỹ quay lưng lại với cuộc chiến ở Việt Nam không phải chỉ vì có một chế độ quân dịch, như Bing đã chỉ ra một cách chính xác trong bài viết nói trên, mà vì cách mà những người có đặc quyền có thể tránh được chế độ quân dịch đó, do đó để cho tầng lớp thấp hơn gánh chịu phần lớn gánh nặng của nó.  

Ví như, bốn tổng thống gần đây nhất, những người có thể đã phục vụ ở Việt Nam nhưng lại tránh được cuộc chiến và chế độ quân dịch bằng những cách không rõ ràng. Bill Clinton giả vờ tham gia vào Army ROTC (Quân đoàn Huấn luyện Sĩ quan Dự bị); George W. Bush đã sử dụng các mối liên hệ chính trị để được vào Lực lượng Phòng không Quốc gia, khi Tổng thống Johnson nói rõ rằng thành phần dự bị sẽ không được kích hoạt để tham chiến; Donald Trump, tất nhiên, đã yêu cầu bác sĩ gia đình của mình tuyên bố rằng ông có xương cựa, (bản thân Trump không thể nhớ ở bàn chân nào); và Joe Biden nói rằng căn bệnh hen suyễn mà ông mắc phải ở trường trung học đã khiến ông không thể phục vụ được mặc dù ông luôn khoe khoang về thành tích thể thao của mình khi còn học trung học.

Cũng vậy, trong phân tích của mình về lý do tại sao chúng ta không thắng ở Iraq, Bing đã bỏ qua thực tế rằng chính quyền Bush đã khiến Mỹ tham chiến và tuyên bố sai rằng Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Hơn nữa, khi chỉ trích chính quyền Obama về việc rút khỏi Iraq năm 2011, Bing phớt lờ thực tế rằng Obama không có lựa chọn nào khác. Ông ấy đã làm điều này bởi vì vào năm 2008, chính phủ Iraq, mà chúng ta đã giúp dựng lên, đã nói rõ với chúng ta rằng họ sẽ không ký Status of Forces Agreement (SOFA) trừ khi chúng ta đồng ý rút quân hoàn toàn vào cuối năm 2011.

Tôi đã tận mắt chứng kiến ​​điều này khi tôi làm việc trong chiến dịch tranh cử của Obama và vào mùa hè năm 2008, gặp Hoshyar Zebari, ngoại trưởng Iraq. Khi tôi hỏi ông ấy về thỏa thuận rút lui, ông nói với tôi rằng đó là một yêu cầu không thể thương lượng.

Khi tôi chuyển điều này cho Denis McDonough, người đang theo chiến dịch tranh cử với Obama và cuối cùng trở thành chánh văn phòng của ông, ông ấy đã rất ngạc nhiên và hỏi tôi liệu tôi có chắc chắn về những gì tôi đã nghe không. Năm 2009, trong chuyến thăm Iraq, tôi đã nói chuyện này với một số quan chức chính phủ Iraq trong quốc hội và cơ quan hành pháp và nhận được câu trả lời tương tự.

Cuối cùng, vào tháng 12 năm 2011, khi thủ tướng Iraq Nouri al-Maliki đến Washington để hoàn tất thỏa thuận, tôi và một số người khác, bao gồm cố vấn an ninh quốc gia đầu tiên của Obama, Tướng David Jones và Bộ trưởng Quốc phòng tương lai Chuck Hagel, đã gặp ông ấy. Tôi đã hỏi trực tiếp ông ấy rằng liệu Tổng thống Obama có thể làm gì để giữ quân đội ở Iraq hay không. Về cơ bản, ông nói rằng Bush đã đưa ra một thỏa thuận và Hoa Kỳ phải tuân theo thỏa thuận đó. Tại cuộc họp, Jones nói rằng Obama sẵn sàng để lại 10.000 quân.

Bing cũng bỏ qua thực tế rằng chính quyền Bush chưa bao giờ công khai hoặc một cách riêng tư ca ngợi Iran về sự giúp đỡ của họ ở Afghanistan, mà đã thực sự chỉ trích công khai quốc gia đó. Chính tôi đã thấy điều này.

Vào ngày 11/9/2001, tôi đang làm việc tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại ở New York. Sau các cuộc tấn công, đại sứ Iran tại Liên Hợp Quốc mời tôi ăn tối và nói với tôi rằng hãy cho chính phủ của chúng tôi biết rằng Iran căm ghét Taliban và sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi ở Afghanistan. Tôi đã chuyển điều này cho chính quyền Bush và đại diện của Bush tham dự Hội nghị Bonn vào tháng 12 năm 2001, nơi thành lập chính phủ Karzai, nói với tôi rằng chính quyền Bush sẽ không thành công nếu không có người Iran. Phần thưởng cho Iran là gì? Đầu năm 2002, Bush đưa đất nước này vào danh sách trục ma quỷ. Nói cách khác là do đó mà Iran không còn đóng một vai trò tích cực nào trong khu vực.

Cuối cùng, trong bài phân tích về Afghanistan của mình, trong khi Bing chỉ ra một cách chính xác rằng quân đội của chúng ta không bao giờ có thể làm thay đổi Afghanistan, thì ông ấy đã sai khi lập luận rằng chúng ta nên ở lại đất nước này vô thời hạn để tránh làm tổn hại đến danh tiếng của chúng ta. Nhiều người đã chiến đấu trong cuộc chiến kéo dài 20 năm này đã tin rằng danh tiếng của chúng ta đã bị tổn hại và muốn chúng ta rời đi trước khi nó bị tổn hại thêm. Logic chi phí cơ hội không nên áp dụng ở đây.

Sẽ tồi tệ thế nào nếu chúng ta đồng ý rời đi vào ngày 1 tháng 5, như Trump đã đồng ý, và Taliban tiếp quản, đặc biệt là đối với phụ nữ? Khi tôi đến thăm Afghanistan vào năm 2011, tôi đã hỏi một quan chức Taliban rằng họ sẽ đối xử với phụ nữ như thế nào nếu hoặc khi họ tiếp quản. Ông ta bảo tôi đừng lo lắng – rằng họ sẽ không đối xử tệ hơn với đồng minh của chúng ta, người Ả Rập Xê Út.

Bài báo của Bing nên được đọc bởi tất cả những người tin rằng Hoa Kỳ có thể phát triển và duy trì các nền dân chủ bằng cách sử dụng sức mạnh quân sự. Tuy nhiên, họ nên nhớ rằng có một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến quyết định này.

* LAWRENCE KORB, Thành viên cao cấp tại Center for American Progress, và là Đại úy Hải quân đã nghỉ hưu, từng là Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng trong Chính quyền Reagan.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *