
THE WASHINGTON INFORMER – zenger.news – July 5, 2021
Ba Sàm lược dịch
Người Mỹ đã quen nhìn thấy nhãn “Made in China” trên các mặt hàng từ giày thể thao đến đồ điện tử, với thương mại giữa các siêu cường này tăng hàng năm, khối lượng hiện trị giá khoảng 700 tỷ đô la mỗi năm.
Nhưng có lẽ nhiều người cũng đã nhận thấy ngày càng nhiều hàng tiêu dùng từ một nguồn, vốn chưa từng có trước đó: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việt Nam hiện là nguồn nhập khẩu lớn thứ sáu của Mỹ – chỉ xếp sau Trung Quốc, Mexico, Canada, Nhật Bản và Đức, và trước những người khổng lồ về giao dịch lịch sử khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Anh và Pháp – theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ .
Thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam – dân số khoảng 100 triệu người – đã phát triển trong nhiều năm. Bộ Công Thương Việt Nam dự đoán tổng kim ngạch thương mại với Hoa Kỳ sẽ vượt mốc 100 tỷ đô la trong năm nay, tăng từ 90,8 tỷ đô la năm ngoái.
Điều đó đã biến những kẻ thù truyền kiếp trở thành những đối tác kinh tế quan trọng – và những người bạn.

“Bất kỳ sự thù địch nào của người Việt Nam chống lại chính phủ Hoa Kỳ hoặc những người Mỹ, phát sinh từ Chiến tranh Việt Nam, thì nay đã lùi xa vào dĩ vãng từ lâu“, Carl Thayer, giáo sư danh dự tại Học viện Quốc phòng Australia ở Canberra và là một chuyên gia nổi tiếng về Việt Nam, giải thích rằng Việt Nam đã hướng ngoại khi mối quan hệ với nước láng giềng phía Bắc căng thẳng.
“Quan điểm của công chúng về Trung Quốc là độc hại, trái ngược với quan điểm tích cực mạnh mẽ về Hoa Kỳ trong các cuộc thăm dò hàng năm,” ông nói, với những cái nhìn tích cực dành cho các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ. “Donald Trump đã vô cùng nổi tiếng do những lời lẽ hùng biện chống Trung Quốc cùng các sắc thuế trừng phạt của ông ấy.”
Trong khi đó, khi Trung Quốc đã phát triển và tiến lên các nấc thang công nghệ, các nhà xuất khẩu Việt Nam ngày càng lấp đầy khoảng trống cho người tiêu dùng Mỹ. Nhiều mặt hàng từng được nhập khẩu điển hình từ Trung Quốc thì nay lại đến từ quốc gia cách mạng nhỏ hơn này.
Các mặt hàng nhập khẩu của Mỹ từ Việt Nam bao gồm giày dép, quần áo, máy móc điện, đồ nội thất và các sản phẩm nông nghiệp, theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Nhưng mối quan hệ đi theo cả hai chiều: xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam đạt tổng trị giá 13,4 tỷ đô la một năm, theo số liệu của Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, với các mặt hàng chính xuyên Thái Bình Dương tới Việt Nam bao gồm máy móc công cụ, máy tính, đồ điện tử, máy bay và phương tiện đi lại.

“Việt Nam là thị trường phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á đối với hàng xuất khẩu của Mỹ,” Thayer cho biết, với lưu ý về tầm quan trọng ngày càng tăng của các mối quan hệ. “Quan hệ song phương Hoa Kỳ-Việt Nam sẽ là một phần lâu dài của cấu trúc kinh tế hậu COVID-19”.
Các mối quan hệ đã trải qua một chặng đường dài kể từ khi cuộc xung đột gay gắt diễn ra trên bán đảo Đông Dương từ những năm 1960 đến 1970 – ở Mỹ được gọi là Chiến tranh Việt Nam và ở Việt Nam thì gọi là Chiến tranh của Mỹ – với thực tế địa chính trị đang thay đổi ở châu Á, trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy, đã tạo cho cả hai quốc gia này những lý do để đảm bảo chuyện quá khứ sẽ trôi vào dĩ vãng.
Đối với Việt Nam, một lý do lớn là muốn có một đối trọng trong khu vực, khi đối thủ truyền thống của nước này tăng cường sức mạnh và đưa ra các yêu sách hung hăng đối với Biển Đông, vùng biển quốc tế phía đông Việt Nam, nơi có lượng thương mại trị giá hơn 5 nghìn tỷ USD đi qua mỗi năm.
“Việt Nam mong muốn có được Hoa Kỳ tham gia về quân sự trong khu vực, với niềm tin rằng điều này sẽ tiếp tục đóng góp vào hòa bình và ổn định của khu vực, đặc biệt là trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy và quyền lực ngày càng tăng”, Collin Koh, một chuyên gia về các vấn đề hải quân Đông Nam Á, tại Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore, cho biết.
“Về mặt này, quan điểm của Việt Nam về vai trò giữ ổn định ở nước ngoài của Hoa Kỳ có thể không khác với quan điểm của nhiều nước khác trong khu vực, chẳng hạn như Singapore.”

Việc hàn gắn mối quan hệ cũng đã được trợ giúp bởi các cựu chiến binh Mỹ trong cuộc chiến, những người đã tìm cách tránh những khác biệt chính trị trong những ứng xử của họ với chế độ cộng sản Việt Nam, để hỗ trợ trong những nỗ lực không ngừng nhằm tìm kiếm và đưa về nước hài cốt của những lính Mỹ bị thất lạc hoặc mất tích.
“Các cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam với tư cách là một nhóm đã làm việc khá tốt với chính phủ Việt Nam, chừng nào mà họ còn trở lại được nơi đó”, John Rowan, chủ tịch Hội Cựu chiến binh Hoa Kỳ Việt Nam, người từng đóng quân tại Căn cứ Không quân Đà Nẵng năm 1967, cho biết.
Rowan kể, các chi hội thuộc tổ chức của ông đã tham gia vào các nỗ lực nhân đạo như giúp đỡ trẻ em Việt Nam trong nhiều năm, đồng thời thận trọng tránh mọi xung đột ngoại giao.
“Chúng tôi luôn có mối quan hệ tốt với chính phủ Việt Nam bởi vì chúng tôi không quan tâm tới chính trị cho lắm”, ông nói. “Chúng tôi chỉ bám sát chương trình nghị sự của mình về việc xác định tù nhân chiến tranh và bính lính mất tích (POW/MIA) và thực hiện các sứ mệnh nhân đạo.”
Theo Thayer, việc cải thiện quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sau cuộc chiến những năm 1970 có thể được chia thành bốn giai đoạn riêng biệt, từ năm 1973 đến nay.

Giai đoạn đầu tiên, từ năm 1973-1975, được đánh dấu bằng hiệp định hòa bình được ký kết tại Paris năm 1973 nhằm chấm dứt các hành động thù địch và quy định đầy đủ tất cả các tù nhân chiến tranh (POW) và binh lính mất tích (MIA). Tổng thống Richard M. Nixon hứa viện trợ tái thiết khoảng 2 tỷ đô la. Tuy nhiên, điều đó đã tan vỡ sau cuộc tấn công của Bắc Việt Nam năm 1975 dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam do Hoa Kỳ hậu thuẫn và kết thúc chiến tranh.
Giai đoạn tiếp theo, từ 1975 đến 1995, được đánh dấu bởi sự tiếp xúc hạn chế giữa nhà nước Việt Nam mới thống nhất và Washington, trong đó “quan hệ song phương gần như tập trung hoàn toàn vào việc kiểm đếm đầy đủ tù binh và binh lính mất tích,” ở cả hai bên, Thayer cho biết.
Năm 1978, Tổng thống Jimmy Carter tiến gần đến việc bình thường hóa quan hệ nhưng bị Quốc hội ngăn cản. Việt Nam ngay sau đó đã khi ký kết một hiệp ước liên minh 25 năm với Liên Xô. Sau khi các lực lượng Việt Nam lật đổ Khmer Đỏ và chiếm đóng Campuchia vào năm đó, Hoa Kỳ đã áp đặt lên Việt Nam các biện pháp trừng phạt kinh tế cho đến khi nước này rút lui khỏi quốc gia láng giềng vào năm 1989.
Lệnh cấm vận thương mại của Hoa Kỳ đối với Việt Nam cuối cùng đã được dỡ bỏ vào năm 1994 và quan hệ giữa hai nước trở nên hài hòa hơn, với Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen vào năm 2000 trở thành quan chức Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm đất nước này kể từ khi chiến tranh kết thúc. Một hiệp định thương mại song phương được ký kết vào năm 2001, với việc Tổng thống Bill Clinton thăm Việt Nam.
Hoa Kỳ đã vĩnh viễn “bình thường hóa” các hoạt động thương mại của Việt Nam vào năm 2006.
Tổng thống Barack Obama thăm Việt Nam và dỡ bỏ lệnh cấm vận buôn bán vũ khí với đối thủ cũ vào năm 2016, và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trở thành nhà lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên được Tổng thống Donald Trump tiếp tại Nhà Trắng vào tháng 5/2017.

Khi Obama đến thăm vào tháng 5 năm 2016, ông thừa nhận mối quan hệ đã thay đổi nhanh chóng.
“Khi Việt Nam đã chuyển mình, mối quan hệ giữa hai quốc gia của chúng ta cũng vậy,” Obama nói, lưu ý rằng việc hòa giải cần có sự thỏa hiệp. “Chúng ta đã học được một bài học mà hòa thượng Thích Nhất Hạnh đã dạy, khi ngài nói, ‘Trong cuộc đối thoại thực sự, cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi’.”
Nhưng ông cũng nhận xét về lịch sử thương mại lâu đời giữa hai quốc gia.
“Ngày nay, chúng tôi cũng nhớ về lịch sử lâu dài giữa người Việt Nam và người Mỹ vốn thường bị bỏ qua,” Obama nói. “Hơn 200 năm trước, khi người Cha lập quốc của chúng tôi, Thomas Jefferson, tìm kiếm gạo cho trang trại của mình, ông đã tìm đến loại gạo của Việt Nam, loại gạo mà ông nói là ‘có tiếng là trắng nhất, vừa có hương vị ngon nhất, và năng suất nhất.‘”
“Ngay sau đó, các tàu thương mại của Mỹ đã đến các cảng của các bạn để tìm kiếm giao thương.“
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, các mối quan hệ được đánh dấu nhiều nhất bởi hợp tác an ninh. Hầu hết các nhà phân tích đã nhìn nhận những mối quan hệ đang ấm lên đó qua lăng kính của đối thủ chung của hai nước này.
Thayer lưu ý, trong khi Trung Quốc sẽ không hào hứng với các liên kết thương mại chặt chẽ hơn của Việt Nam với Hoa Kỳ, thì Bắc Kinh cuối cùng sẽ “quan tâm nhiều hơn đến quan hệ quốc phòng, an ninh và chính trị giữa Hà Nội và Washington hơn là về quan hệ kinh tế”.
Theo đó, chính phủ Trung Quốc liên tục nhắc nhở Việt Nam về cam kết chung của họ đối với chủ nghĩa xã hội và phản đối sự can thiệp của nước ngoài vào công việc nội bộ của họ, ông nói.
“Trung Quốc cảnh giác với bất kỳ sự gia tăng nào trong hợp tác quốc phòng-an ninh Việt – Mỹ, nhưng lo ngại này được giảm nhẹ nhờ chính sách quốc phòng lâu đời của Việt Nam, trong đó nêu rõ Việt Nam nhất quán chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, đứng về phía nước này chống lại nước khác, cho phép bất cứ quốc gia nào khác thiết lập các căn cứ quân sự,” Thayer nói.

Hơn nữa, về mặt thương mại, nhiều nguyên liệu thô được đưa vào xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu lại đến từ Trung Quốc: “Nó cung cấp các nguồn lực thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Trung Quốc có lợi ích vật chất khi thấy Việt Nam thịnh vượng về kinh tế ”.
Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cũng có những vấn đề riêng.
Năm ngoái, Hoa Kỳ đã chỉ định Việt Nam là “nước thao túng tiền tệ”, cáo buộc nước này thay đổi giá trị đồng tiền của mình để giúp đạt được lợi thế thương mại không công bằng – nhưng không có hành động nào được thực hiện sau đó.
Ngoài ra còn có hồ sơ nhân quyền của Việt Nam và việc đàn áp các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ và việc nước này tiếp tục phụ thuộc vào vũ khí và công nghệ quân sự của Nga, dẫn đến việc Hoa Kỳ đe dọa áp dụng các biện pháp trừng phạt mới.
Ngoài ra còn có những vấn đề bao gồm các mối đe dọa về thuế quan của Hoa Kỳ đối với thủy sản, thép và nhôm của Việt Nam, do những hàng hóa này được đánh giá là có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, về cơ bản, mối quan hệ đã trải qua một chặng đường dài kể từ năm 1975.
Liên quan: