
George W. Bush đã đúng. Để Afghanistan như thế này là một sai lầm.
THE WALL STREET JOURNAL by William McGurn – July 19, 2021
Ba Sàm lược dịch
George W. Bush và Joe Biden là những người cùng thời, sinh cách nhau chỉ 4 năm. Cả hai đều trưởng thành trong Chiến tranh Việt Nam. Nhưng với tư cách là tổng tư lệnh, cả hai sẽ đưa ra những kết luận rất khác với Việt Nam. Những khác biệt này gần đây nhất được nhấn mạnh bởi quyết định của ông Biden khi kết thúc sứ mệnh quân sự của Mỹ tại Afghanistan và đưa quân về nước.
Ông Bush, người chủ yếu tránh xa chính trị kể từ khi rời nhiệm sở, đã công khai gọi động thái của ông Biden là “một sai lầm”. Dù không viện dẫn tới Việt Nam, nhưng ông đã rất ngạc nhiên và lo lắng về những hậu quả đối với phụ nữ Afghanistan và những người bạn mà Mỹ sẽ bỏ lại phía sau. “Họ sẽ bị bỏ lại phía sau để bị tàn sát bởi những kẻ rất tàn bạo này, và điều đó khiến trái tim tôi tan nát.“
Nhưng Tổng thống Biden thì không hề e ngại như vậy.
“Taliban không phải là Quân đội Bắc Việt Nam,” ông nói. “Bạn sẽ không thấy có trường hợp nào mọi người bị nhấc khỏi mái nhà của Tòa đại sứ ở Afghanistan.”
Những lời nói của ông Biden về những mái nhà sứ quán gợi lại ký ức về một tài liệu tham khảo tương tự từ ông Bush, hồi tôi còn là người viết bài phát biểu chính của ông ấy, thời điểm (trước khi bùng nổ ở Iraq) mà nhiều người đã viết rằng tình trạng ở đó là vô vọng và muốn quân đội của chúng ta phải rút khỏi bằng mọi giá.
Nhưng khi ông Biden muốn nói những lời này như một sự trấn an, thì ông Bush lại bày tỏ chúng như một quyết tâm. “Billy,” ông ấy nói với tôi, “chúng ta sẽ không bỏ rơi người dân Iraq như cách chúng ta đã bỏ rơi người dân Việt Nam, từ sân thượng của một tòa đại sứ”.
Vào mùa hè năm 2007, ông [Bush] đã mở rộng suy nghĩ của mình trong một bài phát biểu trước Hội Cựu chiến binh ở nước ngoài về sự nở rộ của thịnh vượng và dân chủ ở châu Á, được hỗ trợ bởi sự hiện diện của Hoa Kỳ sau chiến tranh trong khu vực. Ông lưu ý, Việt Nam là một ngoại lệ đáng buồn. “Một di sản không thể nhầm lẫn ở Việt Nam, là cái giá phải trả cho sự rút lui của Hoa Kỳ, là hàng triệu công dân vô tội, những người mà nỗi thống khổ của họ sẽ được thêm vào từ vựng của chúng ta, những thuật ngữ mới như ‘thuyền nhân’, ‘trại cải tạo’ và ‘cánh đồng giết người.”
Điều mà ông Bush hiểu là khi chiếc máy bay trực thăng cuối cùng của Mỹ cất cánh từ Sài Gòn, chúng ta không chỉ bỏ lại phía sau những người trông cậy vào chúng ta. Chúng ta đã để lại rất nhiều niềm tin và sự tín nhiệm đối với người Mỹ — và một nước Mỹ yếu hơn về mặt chiến lược.
Không có ví dụ nào trong số những trường hợp tương tự như Việt Nam có thể an ủi cho những gì chúng ta đang thấy ngày nay.
Cũng giống như chính quyền Nixon đã loại bỏ các đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta ra khỏi thỏa thuận hòa bình năm 1973, trước khi Sài Gòn sụp đổ, chính quyền Trump đã loại trừ chính phủ Afghanistan khỏi các cuộc đàm phán với Taliban dẫn đến thỏa thuận rút quân năm ngoái.
Cũng như Nixon đã đảm bảo với Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu — trong bài viết — rằng Hoa Kỳ sẽ “có hành động trả đũa nhanh chóng và nghiêm khắc” và “đáp trả bằng toàn bộ lực lượng” nếu Bắc Việt Nam vi phạm hiệp định ngừng bắn Paris, Tổng thống Biden nói “sự ủng hộ của chúng tôi sẽ giúp cho Lực lượng Quốc phòng và An ninh Quốc gia Afghanistan trường tồn.”
Taliban và al Qaeda đều biết rõ về Việt Nam, và thường viện dẫn nó để cho rằng chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về họ, vì người Mỹ không đủ sức lực, ý chí tham dự vào những cuộc chiến kéo dài. Một tuyên bố của Taliban từ năm 2013 đã tóm tắt Mỹ theo cách này: “Họ muốn chạy khỏi Afghanistan ngay khi họ vừa quay đầu và bỏ chạy khỏi Việt Nam”.
Điều trớ trêu hiện nay là cam kết của Mỹ ở Afghanistan rất khiêm tốn – chỉ khoảng 2.500 quân. Hãy so sánh điều này với Đức, nơi chúng ta có gần 34.500 quân trong 8 thập kỷ sau khi đánh bại Hitler và 3 thập kỷ sau khi Liên Xô sụp đổ. 80.000 khác được phân chia giữa Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trở lại năm 1972, miền Bắc Việt Nam mở cuộc tấn công vào miền Nam rồi đã bị xóa sổ bởi sức mạnh không quân của Mỹ. Nhưng vào năm 1973, Quốc hội đã thông qua một tu chính án cấm sử dụng thêm lực lượng quân đội Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam. Vì vậy, khi Hà Nội mở cuộc tổng tấn công mùa xuân mới năm 1975, không có gì ngăn cản được – và vào ngày 30 tháng 4, lá cờ Cộng sản đã được kéo lên trên dinh tổng thống Sài Gòn.
Giờ đây, chúng ta đã tước đi lợi thế của những người đang chiến đấu với Taliban, thứ mà trước đây miền Nam Việt Nam từng được hưởng: sự yểm trợ của không quân Hoa Kỳ.
Khi cho rằng ông Bush gần như không được lòng đảng Cộng hòa như bản thân mình ở phe cánh tả của đảng Dân chủ trong những ngày này, Tổng thống Biden có khả năng sẽ không mất ngủ trước những lời chỉ trích ông. Ông ấy thậm chí có thể còn hoan nghênh những chỉ trích đó, như một điểm cộng chính trị, làm nổi bật vị trí của mình với tư cách là tổng thống chấm dứt cái mà ông gọi là “cuộc chiến mãi mãi”.
Thế là, 20 năm sau khi một vị tổng thống thế hệ Việt Nam đưa chúng ta đến Afghanistan, rồi một vị khác đưa chúng ta ra khỏi. Đây không phải là lần đầu tiên đối với ông Biden. Những ai nhớ về sự sụp đổ của Sài Gòn sẽ nhớ lại rằng một Thượng nghị sĩ trẻ tuổi có tên là Biden, đã bỏ phiếu vào năm 1975 để từ chối chút ít viện trợ cuối cùng mà Tổng thống Gerald Ford tìm kiếm cho chính phủ đang ngày càng tuyệt vọng của miền Nam Việt Nam.
Hôm nay, ông Biden tự hào với thế giới rằng “Nước Mỹ đã trở lại.” Nhưng đối với những người Afghanistan dễ bị tổn thương khi đối mặt với Taliban, nước Mỹ đã biến mất.