
Chuyến công du hai nước của Phó Tổng thống Mỹ nhằm tái khẳng định cam kết của Mỹ đối với khu vực chiến lược nhưng Trung Quốc vẫn chiếm thế thượng phong
ASIA TIMES by NILE BOWIE – AUGUST 26, 2021
Ba Sàm lược dịch
Chính quyền Joe Biden hiếm khi bỏ lỡ cơ hội để nhấn mạnh tầm quan trọng của Đông Nam Á đối với chương trình nghị sự Ấn Độ – Thái Bình Dương về việc kiềm chế ảnh hưởng và sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhưng cho đến một loạt các chuyến thăm cấp cao gần đây tới khu vực chiến lược, các nhà quan sát nhận thấy rằng có rất ít hành động được thực hiện để khớp lời nói với hành động.
Giờ đây, Washington hy vọng rằng chuyến công du bảy ngày của Phó Tổng thống Kamala Harris tới Singapore và Việt Nam trong tuần này sẽ ảnh hưởng đến nhận thức về quyết tâm và cam kết của Mỹ sau sự khởi đầu chậm chạp của chính quyền trong việc thu hút sự tham gia của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nhà lãnh đạo của các nước thành viên.
Một số nhà phân tích và quan sát chính trị coi chuyến thăm của phó tổng thống và sự tái khẳng định mạnh mẽ của bà về các mối quan hệ đối tác trong khu vực là một sự phản bác rõ ràng đối với những lời chỉ trích trước đó về sự lơ là chính sách đối ngoại của chính quyền. Nhưng sự tiếp cận của Hoa Kỳ cuối cùng vẫn bị coi là mang nặng tính biểu tượng và thiếu các đề xuất cụ thể và có ý nghĩa.
Với những lời chỉ trích gay gắt đối với Bắc Kinh, chính quyền Biden phải cẩn thận lập khung cho các sáng kiến trong khu vực, dựa trên giá trị của chúng và tách biệt khỏi bất kỳ chương trình nghị sự rõ ràng nào nhằm đối đầu với Trung Quốc, điều mà các nhà phân tích cho rằng sẽ làm giảm sự ủng hộ từ các quốc gia Đông Nam Á đang tìm cách cân bằng quan hệ của họ với Washington và Bắc Kinh.
Trong một bài phát biểu tại Singapore vào ngày 24 tháng 8, Harris cho biết Mỹ sẽ sát cánh cùng các đồng minh và đối tác của mình trong việc đối đầu với “sự chèn ép” và “sự đe dọa” của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng đảm bảo rằng “sự can dự của chúng tôi ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là không chống lại bất kỳ quốc gia nào, cũng không được thiết kế để khiến bất kỳ ai phải lựa chọn giữa các quốc gia”.
Phát biểu ngày hôm sau trong cuộc gặp với Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, Harris cho biết hai nước cần “tìm cách gây sức ép, gia tăng sức ép” đối với Bắc Kinh để nước này tuân theo phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực có lợi cho Philippines, và bác bỏ các yêu sách bành trướng của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp.
Các bài báo của truyền thông nhà nước Trung Quốc cáo buộc Harris đang tìm cách gây chia rẽ mối quan hệ giữa Bắc Kinh và các nước láng giềng Đông Nam Á; đồng thời cũng bôi nhọ sự tín nhiệm của Hoa Kỳ sau cuộc rút lui hỗn loạn khỏi Afghanistan tiếp theo cuộc tiến công nhanh chóng của lực lượng Taliban và việc lực lượng này giành chính quyền quá nhanh chóng ở Kabul.

Vài giờ trước khi Harris đến Hà Nội, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính được cho là đã tổ chức một cuộc gặp không báo trước với Đại sứ Trung Quốc Xiong Bo (Hùng Ba), trong đó ông Chính, theo một tuyên bố của chính phủ, có vẻ như để xoa dịu sự lo lắng của Trung Quốc, đã nói rằng Việt Nam “không liên kết với nước này để chống lại nước khác”.
Phát biểu của Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan trước chuyến thăm của Harris cũng được đăng tải nổi bật trên các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc. Ông cho biết Singapore sẽ “hữu ích nhưng chúng tôi sẽ không bị lợi dụng” trong quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ, và rằng quốc gia phụ thuộc vào thương mại này sẽ không trở thành “con ngựa làm bình phong (stalking horse, có lẽ ám chỉ sẽ bị như đảo Guam-hình con ngựa, cũng có vị thế bình phong trong phòng thủ – ND) của kẻ đi săn này hay kẻ khác cho việc thúc đẩy các chương trình nghị sự tiêu cực.”
Stephen Olson, một nhà nghiên cứu cấp cao tại Hinrich Foundation, một tổ chức từ thiện thúc đẩy thương mại toàn cầu, nói rằng Mỹ và Trung Quốc coi ASEAN như một đấu trường mà họ phải cạnh tranh để giành ảnh hưởng, và đến lượt mình, các nước trong khu vực đã tìm cách chơi chiến thuật “tọa sơn quan hổ đấu” (“the two elephants” off against each other).
“Ý tưởng đó là để cho Mỹ và Trung Quốc cạnh tranh giành ảnh hưởng và sự ưu ái cho khu vực, trong khi tối đa hóa đòn bẩy và lợi ích tích lũy được từ cuộc cạnh tranh. Singapore đã nâng hành động cân bằng này lên thành một loại hình nghệ thuật, nhưng hầu hết các thành viên ASEAN đều thực hành nó ở mức độ này hay mức độ khác. Trung Quốc hiện được cho là có ưu thế trong khu vực,” ông phân tích.
Giữa những nhận thức về tình trạng Mỹ đang mất đi nền tảng ngoại giao, Washington đã tăng cường can dự vào khu vực này trong những tuần gần đây, khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin thăm Singapore, Việt Nam và Philippines vào tháng 7 và việc Ngoại trưởng Anthony Blinken tham gia các cuộc đàm phán nhiều ngày, được tiến hành qua mạng trực tuyến, với các ngoại trưởng ASEAN vào đầu tháng này.
Harris là quan chức cấp cao nhất của Hoa Kỳ đến thăm khu vực kể từ khi ông Biden nhậm chức vào tháng Giêng, và cũng là phó tổng thống đương nhiệm đầu tiên đến thăm cựu đối thủ trên chiến trường Việt Nam. Các nhà phân tích coi chuyến đi nước ngoài thứ hai của bà, kể từ khi thăm Guatemala và Mexico vào tháng 6, là cơ hội để Harris, một ứng cử viên tiềm năng cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2024, xây dựng vốn chính trị trên chính trường toàn cầu.
Hunter Marston, một ứng cử viên Tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Úc, cho biết sự gia tăng gần đây trong cam kết của Hoa Kỳ với Đông Nam Á đã được lên kế hoạch trong một thời gian, nhưng theo nhiều cách đã tỏ ra quá muộn, trong đó có việc Biden tương đối chậm trong việc bổ nhiệm đại sứ cho khu vực và vẫn chưa liên lạc qua điện thoại với bất kỳ nguyên thủ quốc gia nào trong khu vực.
“Chính quyền Biden nhận ra rằng khu vực này là tâm điểm của cuộc cạnh tranh với Trung Quốc về ảnh hưởng và giá trị, nhưng nếu không có sự quan tâm ở cấp cao và các chuyến thăm trực tiếp, các nhà lãnh đạo Đông Nam Á có thể bắt đầu nghi ngờ sức mạnh trong sự cam kết của Hoa Kỳ, ngoài những lời hứa khoa trương,” Marston nhận xét.
Singapore và Việt Nam là một trong số hai quốc gia ASEAN duy nhất có tên trong báo cáo Hướng dẫn Chiến lược An ninh Quốc gia Tạm thời của chính quyền Biden, được công bố vào tháng 3, nêu rõ các quốc gia đối tác mà Washington dự định tham gia sâu rộng như một phần của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn, với các chuyến thăm của Harris và Austin, rõ ràng là nhằm vào củng cố mục tiêu đó.
Mặc dù không phải là đồng minh theo hiệp ước của Mỹ, Singapore là một trong những đối tác an ninh mạnh nhất của Washington trong khu vực, với việc nước này thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận hải quân song phương. Việt Nam, một bên tranh chấp Biển Đông, đã nổi lên như một đối tác quan trọng của Mỹ trong những năm gần đây, có chung quan điểm phản đối chủ nghĩa bành trướng hàng hải của Trung Quốc.
Harris đã được đặt nhiều câu hỏi, song lảng tránh, về việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan trong cuộc họp báo chung ở Singapore với Thủ tướng Lý Hiển Long, người được một phóng viên hỏi về việc liệu “tính toán” của ông có thay đổi hay không khi dựa vào Washington như một đối tác trong khu vực với một hệ quả là những nỗ lực rút quân hỗn loạn ở Afghanistan.

Lee trả lời bằng cách nói rằng các nước ở Đông Nam Á sẽ chú ý đến cách Hoa Kỳ định vị lại bản thân và thu hút các đối tác và đồng minh trong khu vực, trong khi vẫn tiếp tục nỗ lực chống khủng bố, đồng thời đề nghị máy bay vận tải chở dầu đa năng của Không quân Cộng hòa Singapore giúp hỗ trợ trong việc sơ tán người tị nạn Afghanistan.
Mỹ và Singapore đã ký kết một loạt các thỏa thuận về an ninh mạng, khí hậu, chia sẻ thông tin tình báo về dịch bệnh và hợp tác kinh tế trong chuyến thăm của Harris. Phó tổng thống cũng đã tham gia một cuộc đối thoại về khả năng phục hồi chuỗi cung ứng với các nhà lãnh đạo khu vực tư nhân, đề cập đến các vấn đề như sự chậm trễ sản xuất xuất phát từ tình trạng thiếu chip toàn cầu đang diễn ra.
Trong một bài phát biểu về chính sách ở quốc gia thành phố này, Harris đề xuất rằng Hoa Kỳ sẽ đăng cai tổ chức cuộc họp Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) vào năm 2023, trong bối cảnh chính quyền trước đây của Đảng Cộng hòa không quan tâm đến diễn đàn liên chính phủ 21 quốc gia, mà cựu tổng thống Donald Trump đã từ chối tham dự hai năm liên tiếp.
Khi ở Việt Nam, Harris đã hứa hẹn sẽ tặng 1 triệu liều vaccine Pfizer-BioNTech cho đất nước này, nơi đang đối mặt với đợt bùng phát Covid-19 nguy hiểm nhất do biến thể Delta dễ lây lan hơn, và bà khai trương văn phòng khu vực mới của Trung tâm Hoa Kỳ Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) ở thủ đô Việt Nam.
Theo tòa đại sứ Hoa Kỳ, trung tâm này, một trong bốn trung tâm trên thế giới, nhằm “bảo vệ người Mỹ và người dân trong khu vực bằng cách phản ứng nhanh hơn với các mối đe dọa sức khỏe.” Hoa Kỳ đã tài trợ tổng cộng 6 triệu liều vaccine cho Việt Nam và cam kết 23 triệu đô la Mỹ để hỗ trợ những nỗ lực của Hà Nội trong việc chống lại đại dịch, qua chuyến thăm của Harris.
Các nhà phân tích cho rằng hình ảnh của Washington trong khu vực đã được nâng cao nhờ hiệu quả so sánh của vaccine dựa trên công nghệ mRNA so với vaccine do Trung Quốc sản xuất đang được sử dụng rộng rãi trên khắp Đông Nam Á. Đại sứ của Trung Quốc tại Việt Nam được loan báo là đã tuyên bố tài trợ 2 triệu liều vaccine cho nước này, vài giờ trước khi Harris đến.

An ninh hàng hải được chú trọng nổi bật trong cuộc hội đàm giữa Harris với các nhà lãnh đạo Việt Nam. Reuters dẫn lời một quan chức Nhà Trắng giấu tên cho biết phó tổng thống đề nghị tăng cường các chuyến thăm của tàu chiến và hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ, cũng như các hoạt động hàng hải chung khác, mặc dù không rõ liệu Hà Nội có phản ứng chắc chắn với các đề xuất đó hay không.
Vắng mặt trong chương trình nghị sự của chuyến công du hai nước là các cuộc thảo luận về một hiệp định thương mại rộng lớn trong tương lai. Cả Singapore và Việt Nam đều là thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một hiệp định trước đó đã được chính quyền Đảng Dân chủ Barack Obama ủng hộ.
Tuy nhiên, thỏa thuận sau đó đã bị chính quyền Trump từ bỏ và việc thiếu một đề nghị thương mại toàn diện của Mỹ để đối trọng với các sáng kiến của Trung Quốc đã là một điểm gắn bó với các đối tác kinh tế ASEAN của Mỹ kể từ đó. Khả năng đạt được các thỏa thuận nhỏ hơn, chẳng hạn như thương mại kỹ thuật số, đã được thảo luận trong chuyến thăm của Harris đến Singapore.
Academic Marston nói rằng mặc dù các sáng kiến kinh tế kỹ thuật số và chuỗi cung ứng không phải là không đáng kể, nhưng việc báo hiệu ý định tham gia CPTPP sẽ gửi một tín hiệu rõ ràng hơn đến khu vực. “Thật không may, chính quyền Biden có thể tính toán rằng tâm trạng chính trị ở Washington chưa chín muồi cho một chủ trương lớn như vậy,” ông nói.
“Chính quyền Mỹ có thể nghĩ rằng họ cần thêm vốn chính trị trước khi thực hiện một động lực như vậy, nhưng họ nên bắt đầu đặt cơ sở cho việc tái gia nhập CPTPP ngay bây giờ, bằng cách giải thích các lợi ích một cách rõ ràng và nhất quán, đồng thời gửi các tín hiệu phù hợp tới các nhà lãnh đạo khu vực ở Hà Nội và Singapore,” Marston bổ sung.
Steven Okun, cố vấn cấp cao tại công ty tư vấn thương mại McLarty Associates, cho biết hợp tác về thương mại kỹ thuật số là “một lĩnh vực rõ ràng và dễ dàng cho tiến bộ song phương” và quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu sau đại dịch, và đồng ý rằng Washington cuối cùng sẽ cần theo đuổi một … hiệp định thương mại tự do có hiệu lực với các quốc gia Đông Nam Á.
“Các đối tác trong khu vực hiểu rằng Hoa Kỳ cần thời gian để điều chỉnh lại các chính sách thương mại và phù hợp với chương trình nghị sự trong nước, nhưng chính quyền không thể, và có lẽ là không, cho rằng họ sẽ ngồi đó và chờ đợi mãi mãi, đặc biệt là với tốc độ thay đổi và tăng trưởng của kinh tế kỹ thuật số,” Okun nói với Asia Times.
Vấn đề phức tạp đối với Mỹ là trên thực tế, một số nước ASEAN có mối quan hệ thương mại chặt chẽ hơn với Trung Quốc thông qua Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được ký vào tháng 11 năm ngoái, một thỏa thuận rộng rãi mà các nhà phân tích cho rằng đã đặt Bắc Kinh vào vị thế tốt hơn để định hình các quy tắc của thương mại khu vực.

Okun cho biết sẽ hợp lý nếu Washington bắt đầu với một thỏa thuận ngành về thương mại kỹ thuật số mà không yêu cầu quốc hội phê duyệt và cả hai đều “dễ thương lượng hơn nhiều và cực kỳ phù hợp với thời đại”. Các cuộc thảo luận về chuỗi cung ứng cũng sẽ giúp giải quyết những thách thức cụ thể trong ngắn hạn hơn bất kỳ hiệp định thương mại nào, ông lập luận.
“Chất bán dẫn, sản phẩm chăm sóc sức khỏe và thời gian vận chuyển là những thách thức thực sự mà các doanh nghiệp phải đối mặt và có thể có tác động chính trị ở Mỹ,” ông nói. “Không thể để nước đến chân mới nhảy và tình trạng thiếu hàng hóa làm tăng thêm áp lực lạm phát – các cử tri thực sự quan tâm đến điều này và có thể xuất hiện trong tỷ lệ tín nhiệm với chính phủ”.
Olson của Quỹ Hinrich, tỏ ra ít lạc quan hơn về đề xuất của chính quyền Biden, cho rằng “Chính sách thương mại lấy người lao động làm trung tâm của Biden, sự nhấn mạnh của ông ấy về ‘Mua hàng Mỹ’ và mong muốn di dời chuỗi cung ứng về gần hơn đã thể hiện nhiều mối đe dọa hơn là một nền kinh tế mang lại lợi ích cho Đông Nam Á.”
Olson, một cựu chuyên gia đàm phán thương mại quốc tế ở Washington DC, người từng phục vụ trong đoàn của Mỹ cho các cuộc đàm phán NAFTA, cho biết Mỹ “chỉ đơn giản là có ít khả năng cung cấp cho khu vực hơn” về mặt lãnh đạo kinh tế, vì Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành quốc gia thương mại hàng đầu và là đối tác đầu tư của đa số các quốc gia trong khu vực.
Hơn nữa, dưới cái bóng tối tăm như điềm báo trước của “sự rút lui an ninh tai hại” của chính quyền Biden tại Afghanistan, các cam kết an ninh hàng hải do Hạm đội 7 Hoa Kỳ thực hiện không còn là điều kiện thuận lợi, Olson lập luận. “Có rất nhiều lý do để đặt câu hỏi liệu Mỹ có sẵn sàng cung cấp các đảm bảo an ninh ngấm ngầm hoặc rõ ràng mà họ đã có trong quá khứ hay không,” ông nói thêm.
Trong khi ASEAN e ngại về việc Trung Quốc có khả năng thống trị khu vực theo những phương cách hống hách, thì sự tin tưởng vào khả năng của Hoa Kỳ trong việc đóng vai trò là một đối trọng đáng kể đang giảm sút. “Chính quyền Biden lo ngại trước ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực, nhưng lại chẳng sẵn lòng hoặc không thể khẳng định lại một cách có ý nghĩa sự liên quan của Hoa Kỳ,” Olson lập luận.
Những cử chỉ tượng trưng từ Mỹ nhằm khẳng định lại vai trò lãnh đạo ở Đông Nam Á sẽ không thuyết phục được các nhà lãnh đạo ASEAN”.
Liên quan: